Chủ Nhật, 29/01/2012 - 07:21
Tết buồn của đôi vợ chồng già bị 7 đứa con đẩy ra đường
Đó là bi kịch của vợ chồng cụ Nguyễn Văn Quý (84
tuổi) và cụ Nguyễn Thị Chén (82 tuổi), ngụ thôn Đồng Lư, xã Đồng Quang,
huyện Quốc Oai, Hà Nội. Tám năm bị con cái đẩy ra đường là tám cái Tết
buồn của cặp vợ chồng bất hạnh.
Bài
viết này được đăng trên báo Pháp Luật Việt Nam, chúng tôi xin cảm ơn
nhóm tác giả bài viết và xin trân trọng chuyển tới độc giả.
***
Những đứa con “trời đánh”
Tìm
đến thôn Đồng Lư hỏi thăm vào ngôi chùa có vợ chồng cụ già phải tá túc,
mọi người đều biết chính xác: “Chắc cô chú tìm ông bà Quý hả? Tội
nghiệp ông bà ấy lắm cô chú ạ, hiền lành, chịu thương chịu khó nhưng về
già mất phúc. Con cái thì đông đúc, giàu có mà có đứa nào chịu nuôi bố
mẹ đâu”. Rồi không kịp để khách hỏi thêm câu nào, mọi người tranh nhau
kể tội mấy đứa con bất nhân của hai cụ: “Mấy hôm trước chúng nó lại vừa
hành hung bố mẹ”.
Cụ
bà Nguyễn Thị Chén đang cầm chổi quét sân chùa, tuổi già, mắt kém nên
lẩy bẩy lia từng nhát chổi chậm chạp, cứ vài phút lại dừng tay đấm lưng.
Trời Hà Nội những ngày cuối năm lạnh đến dưới 10 độ C nhưng bà cụ cho
biết ông lão chồng mình từ sáng sớm đã ra đồng mò cua bắt ốc.
Nghe
có người muốn đến hỏi chuyện bi kịch của mình, khóe mắt nhăn nheo của
bà cụ trào nước mắt: “Một đời chúng tôi vì con vì cái, nuôi nấng dựng vợ
gả chồng cho chúng, không để nợ một đồng một cắc nào cho chúng. Vậy mà
giờ chúng đối xử với vợ chồng tôi thế này đây”.
Cách
đây 60 năm, ông bà quen nhau trong một lần đi làm thuê ở miền sơn cước
rồi nên duyên vợ chồng. Về sống với nhau, ông bà lập nghiệp từ đôi bàn
tay trắng trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng. Lúc vợ chồng ra ở riêng
tài sản chỉ có duy nhất 20 cây tre để dựng căn nhà làm nơi tá túc tránh
mưa tránh nắng.
Ông
bà lần lượt sinh hạ được bảy người con, ba trai, bốn gái. Cuộc sống vốn
dĩ đã khó khăn, khi bảy đứa con lần lượt chào đời thì cuộc sống càng
túng quẫn hơn. Để nuôi được bảy người con thành người, ông bà đã phải
chịu trăm ngàn cực nhục. Ông đi làm thuê làm mướn hùng hục suốt ngày,
còn bà thì tối ngày cắm mặt trên mấy thửa ruộng kiếm miếng cơm manh áo
nuôi con. Căn nhà nhỏ cũ nát đêm mưa không có chỗ nằm, ông bà nhường cho
các con chỗ khô ráo, còn mình thì chịu trận giữa mưa gió. Bữa no bữa
đói, nồi cơm độn sắn ngô không đủ cho đàn con đông đúc, có bữa ông bà
phải nhịn ăn nhường con.
Xã
hội ngày càng càng phát triển, cuộc sống rồi cũng bớt khó khăn. Rồi ông
bà dựng vợ gả chồng cho mấy đứa con lớn, mấy đứa nhỏ thì do cuộc sống
khó khăn quá nên ông bà dắt lên vùng kinh tế mới ở Tiến Xuân thuộc huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (nay là xã Tiến Xuân, huyện Thạch Thất, thành
phố Hà Nội). Đến vùng kinh tế mới, do chịu khó làm ăn nên cuộc sống gia
đình đã thoát khỏi cảnh túng quẫn. Lúc này ông bà dựng vợ gả chồng nốt
cho mấy đứa nhỏ.
Tuy
không bằng ai nhưng ông bà vẫn cố gắng lo lắng cho con cái chu đáo, 3
người con trai thì cho mỗi anh một dinh cơ khi lấy vợ, không để nợ một
xu một đồng cho đứa con nào. Khi người con trai thứ ba của ông bà lấy vợ
xây nhà, đứa con xui ông bà bán đất ở vùng kinh tế mới để lấy tiền xây
nhà cho mình, ông bà cũng nghe theo vì cha mẹ nào chẳng “cá đuối đắm
đuối vì con”.
Những bữa cơm chan nước mắt
Bà
cụ giơ tay gạt dòng nước mắt rồi tiếp tục câu chuyện. Sau khi dồn hết
tiền làm nhà cho anh con trai thứ ba, ông bà về ở với người con trai cả
khi trong tay ông bà không còn tiền. Người con cả khi đó đã hậm hực hắt
hủi ông bà với lý do: “Bao nhiêu tiền cho thằng thứ ba hết, tôi không
được gì”, trong khi chính anh ta thừa hưởng mảnh đất trước đó cha mẹ
cho.
Sống
với người con cả, vợ chồng cụ phải làm như người đi ở. Hàng ngày hai cụ
phải lấy bèo nuôi bảy con lợn, cày cấy gặt hái, đi làm sớm về muộn mới
được miếng cơm để ăn. Đến mùa vụ, có khi cụ bà đi gặt được mấy gánh lúa
thì con dâu mới ra đồng. Cực nhục là vậy nhưng với bản tính hiền lành
chịu thương chịu khó, ông bà cắn răng không kêu nửa lời cho vừa lòng vợ
chồng con cả. Nhưng cũng chẳng được bao lâu thì anh con cả tuyên bố
thẳng thừng: “Ông bà cút khỏi nhà này, đi đâu thì đi”.
Vợ
chồng cụ đành lẳng lặng ôm quần áo tìm đến nhờ vả anh con trai thứ ba.
Những tưởng trước đây mình đã lo lắng bán nhà đi lấy tiền cho nó xây nhà
thì con sẽ tốt với mình, thế nhưng trái lại người con này cũng không
kém phần tệ bạc với cha mẹ và tỏ rõ “quan điểm”: “Ông cả không tử tế với
ông bà thì tôi việc gì phải tử tế?”.
Ở
đây, cảnh khổ không kém gì con cả khi đã không những phải làm lụng vất
vả, họ còn năm lần bảy lượt bị con đuổi đi. Nhục nhã nhất là những bữa
cơm chan nước mắt. Bữa ăn nào cũng vậy, người con trai bắt bố mẹ phải
cung kính mời… vợ chồng con cái mình ăn cơm bằng câu: “Mời ông bà ăn
cơm, mời các cháu ăn cơm”.
Có
những người làng xóm thấy vậy thì bực mình thay và phẫn nộ: “Ông bà
hiền quá để nó bắt nạt, mình là bố mẹ đến bữa thì sao phải mời chúng
nó”. Thử một lần “phạm thượng”, tối đó hai cụ không mời thì bị con trừng
mắt nạt nộ: “À, cái nhà này ăn cơm không ai mời ai à”. Sợ ông “trời
con”, ông bà run rẩy “trở về nếp cũ”: “Mời ông bà…”.
Nhẫn
nhịn bao lâu những mong yên thân nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng
dừng”, đến một hôm gã con trai thứ ba giơ tay đấm vào mặt mẹ, vác dao kề
cổ bố xua đuổi: “Bước mẹ chúng mày ra khỏi nhà, không tao cho nhát dao
bây giờ” (Lời nguyên văn của cụ Chén - PV). Thấy bố mẹ lủi thủi ôm mớ
quần áo rách bước đi, gã còn thẳng thừng tuyên bố: “Còn quay về đây thì
đập chết”.
Vẫn
còn một niềm hi vọng nữa là người con trai thứ. Biết bố mẹ phải lang
thang ngoài đường, anh này đón ông bà lên ở cùng nhưng cũng được vài
hôm. Phải sống trong cảnh những lời nói móc máy của cô con dâu ra rả
trong nhà suốt cả ngày, ông bà cảm thấy sống còn khổ hơn chết. Nước mắt
lưng tròng, không còn nơi nương tựa vợ chồng cụ lang thang đây đó, đến
khi không còn chỗ nào nữa đành phải vào ở nhờ nhà chùa.
Tám
mươi năm cuộc đời vất vả làm lụng, gia tài các cụ có trong tay là bảy
đứa con bất hiếu và bất lực, sau miếng ván dùng để đóng áo quan khi chết
cùng 3 bao tải đựng lá khô dùng đun nấu. Người làng thấy vậy liền
thương tình người cho cái bát, người cho manh chiếu, người cho cái
giường cũ để các cụ dựng thành cái “tổ ấm” cuối đời.
(Ảnh minh họa)
Rơi lệ nghe những kỷ niệm buồn
3
người con trai thì vậy, những người con gái cũng không “khá khẩm” gì
hơn. “Mấy đứa con gái thì một đứa lấy chồng ở Xuân Mai, một đứa lấy ở
trại Bà Nhà, một đứa ở Cố Đụng
(đều là những địa điểm gần nơi ông bà đang ở nhờ - PV), còn đứa út thì
lấy chồng ở làng Đồng Lư này thôi”, bà lão nhẩm đếm. 3 đứa con gái của
cụ theo lời kể của bà lão tội nghiệp thì kinh tế đều khá giả, chỉ có cô
út lấy chồng ở làng thì nghèo “rớt mồng tơi”.
Chẳng
biết giàu sang cỡ nào nhưng mấy đứa con gái hàng năm không ngó ngàng
tới bố mẹ, năm thì mười họa mới mua cho ông bà mấy viên thuốc, Tết nhất
may ra cho được túi kẹo cái bánh. Riêng cô con út cùng làng thương cha
mẹ già thì thỉnh thoảng ghé qua nhưng nghèo quá, nuôi còn chưa nổi nói
gì lo cho cha mẹ già.
Trở
lại câu chuyện những người con trai. “Sòng phẳng” mà nói thì lúc ra nhà
chùa ở, hai cụ vẫn chưa đến nỗi không còn “miếng đất cắm dùi” vì vẫn
còn một sào ruộng để cấy lúa sinh nhai. Thế nhưng tài sản cuối cùng này
cũng bị đứa con trai cả tranh cướp. Đã mấy lần cô út đi giúp bố mẹ già
làm ruộng thì bị vợ chồng anh cả vác cuốc đuổi đánh, không cho làm hộ vì
“đó là ruộng của tao, mày đừng có động vào”,
Chưa
hết, mấy năm trước hai cụ đến tuổi thượng thọ nên được hưởng chính sách
của Nhà nước, theo quy định thì phải có sổ hộ khẩu, chính quyền mới có
thể làm giấy tờ chúc mừng, làm chế độ. Vẫn đứng tên trong hộ khẩu gia
đình con trai cả, ông bà lủi thủi về van vỉ con cho mượn cái sổ hộ khẩu
để làm giấy tờ cũng bị đứa con từ chối thẳng thừng.
Khi
người cha về van vỉ: “Con cho bố mượn sổ hộ khẩu một lát, bố chỉ mang
đi photocopy rồi trả ngay” thì đứa con nại ra lý do “Sổ đang ở nhà
trưởng thôn”. Lóc cóc tìm đến nhà trưởng thôn thì được biết rằng con đã
lừa mình, ông lão lại lộn trở lại nhịn nhục xin mượn lần nữa thì con
trai – con dâu đùn đẩy nhau. Uất ức, người cha gạt nước mắt lủi thủi
quay đi và thề “không bao giờ bước chân đến đây nữa”.
Cũng
có những lúc ông bà lão 80 này được những đứa con “đối xử tử tế” một
cách bất thường. Đó là những lúc chúng cần các cụ làm “con ở”. Thằng con
trai thứ ba của họ là một ví dụ, khi vợ sinh nở thì người này tới đón
vợ chồng cụ vào. Đã “cảnh giác” sau nhiều lần bị lợi dụng nên cụ ông
không đi vì nghĩ “nó chỉ đạo đức giả”, riêng cụ bà thương con thương
cháu nên theo vào chăm sóc, giặt giũ, làm lụng “phục vụ” gia đình con.
Lời
ông cụ đã đúng khi đứa cháu đã cứng cáp, vợ chồng đứa con lại đuổi bà
đi: “Bà đi làm lấy mà ăn, không được ở đây nữa”. Gần 10 năm nay thấy ông
bà lão chui rúc trong căn lều rách, nhiều người hàng xóm khuyên: “Hai
cụ đi ở nhờ đình chùa làm gì cho khổ, về làm một túp lều ở góc vườn nhà
thằng con mà ở”. Phong phanh nghe thấy, đứa con ngang ngược nói bóng
gió: “Về tao không cho làm, tao “băm” chết”.
Với
những “kinh nghiệm xương máu” từ những đứa con, bà cụ thành thật:
“Chẳng biết rồi khi chúng tôi chết chúng có để ý đến bố mẹ không, hay
lại phải nhờ cậy đến chính quyền, đến dân trong làng”. Những đứa con
trai chưa từng một lần đến xem túp lều nơi cha mẹ trú thân, chưa từng
một lần ngó ngàng để ý bố mẹ còn sống hay chết.
Táng
tận lương tâm hơn, chúng còn cấm tiệt các con không được chào hỏi,
không được ra chơi với ông bà. Những đứa con dâu “rách giời rơi xuống”
thì đã đành, nhưng những đứa cháu có lẽ đã được bố mẹ “huấn luyện” nên
có gặp ông bà hay cô út ngoài đường chúng cũng “bơ” đi như người dưng
nước lã.
Chúng
tôi hỏi tại sao hai cụ không nhờ chính quyền địa phương can thiệp sự
việc, ít nhất nếu con cái không nuôi cha mẹ thì cũng phải trả các cụ
mảnh ruộng cho các cụ kiếm gạo chứ? Cụ bà nghẹn ngào: “Chính quyền cũng
không làm gì được mấy thằng con tôi. Ở đây chúng nó chửi nhau hết với họ
hàng rồi đến hàng xóm, sống một mình mà không chơi với ai cả”.
Chị
út khi đó vừa đến thăm mẹ cũng gục đầu nức nở: “Trước kia khi anh tôi
kề dao vào cổ bố dọa chém, chính quyền và dân quân có đến bắt anh ta
viết giấy cam đoan không được hành hung bố mẹ nữa nhưng chỉ hôm trước
hôm sau lại đâu vào đấy. Tôi thì cũng đau lòng lắm nhưng “lực bất tòng
tâm” các anh chị ạ, muốn nuôi bố mẹ mà sức không nổi vì nghèo, lại lấy
chồng nên phải lo nhà chồng”.
Sống khổ hơn chết
Góc
nhà nơi ông bà lão “trời đày” này trú ngụ rộng khoảng dăm m2, chiếc
giường xin được ở đâu nên hai chân còn, hai chân phải lấy gạch kê lên.
Người già đã khó ngủ, đêm mùa đông càng khó ngủ hơn khi gió cứ len lỏi
qua cửa sổ thốc vào nhà dù hai cụ đã cẩn thận nhét đầy ni long, giẻ rách
vào các khe hở. “Nghĩ cực lắm, chúng tôi có làm gì nên tội đâu mà lại
bị đày đọa thế này.
Nhưng
vợ chồng tôi cũng kiên gan lắm đấy, nhiều khi cũng muốn phát điên hay
cắn lưỡi mà chết, nhưng bây giờ mà chết thì chính quyền với làng xóm lại
khổ nên sống được ngày nào cứ cố sống. Đêm nào cũng nước mắt chảy xuôi,
cụ Chén nói.
Đọc
đến đây, nhiều người sẽ thắc mắc ông bà lão sinh sống bằng gì. Bà cụ
cho biết ngoài việc ông lão ngày ngày đi mò cua bắt ốc, người trong làng
còn mỗi người giúp một chút, hôm thì cho lon gạo, hôm thì cho ít muối,
mà người già ăn ít, chẳng có nhu cầu mua sắm gì nên ông bà vẫn cầm cự
được. “Năm nay là cái Tết thứ tám vợ chồng tôi ở đây rồi, Tết nhất chẳng
có gì, cứ nhìn nhà người ta con cái sum vầy thì mình lại khóc. Mình có
đến bảy đứa con, hàng chục đứa cháu mà lại khốn khổ khốn nạn nhất cái
làng này”, cụ Chén khóc.
Rồi
cụ bà ngóng ra ngoài xem cụ ông đã về đi mò cua bắt ốc về chưa, chép
miệng thương chồng: “Khổ thân ông ấy, tôi thì ốm đau nên mọi việc đều
phải ông ấy làm. Sáng nay tôi bảo trời vẫn rét lắm, đừng đi ra đồng lặn
lội nữa mà ông ấy vẫn gạt đi, bảo là Tết đến nơi rồi phải kiếm mớ ốc con
tép bán kiếm tiền mua nén nhang cúng tổ tiên. Trời rét thế này tôm tép
cũng trốn sạch, có khi mình còn chết rét ấy chứ”.
Cụ
bà kể lại cụ ông ngày may mắn thì cũng kiếm được vài con ốc bán lấy dăm
ngàn, có ngày đi từ sáng đến tối mới về mà tay không vì “tay đưa thìa
cháo lên miệng còn run, mắt kèm nhèm thì làm sao bắt được tôm tép. Có
ngày bắt được nửa giỏ ốc về nhưng đổ ra tôi mới thấy quá nửa toàn là… vỏ
ốc. Những ngày không có gì ăn hay gần hết cái ăn, hai cụ phải nấu cháo
húp dằn lòng, hoặc cố đi nhặt nhạnh rau dại ăn trừ bữa. Chùa cũng không
có nước, hàng ngày cụ ông lọc cọc kéo xe bò từ giếng làng về để dùng
sinh hoạt.
Ấy
là mấy hôm trước ông lão vừa đi viện về, vậy mà vừa xuất viện hôm trước
hôm sau lại đã lọ mọ ra đồng tìm cái ăn. Nhắc đến chuyện này, bà cụ lại
rưng rưng nước mắt nhớ “bạn”. “Bạn” của bà là một con chó gầy giơ
xương, tám năm nay lủi thủi quanh quẩn cùng ông bà, lúc ông đi kiếm ăn
thì bầu bạn với bà, cho bà vỗ về.
Vậy
nhưng hôm ông lão ốm, nhà làm gì có đồng nào xu nào nên bà chạy nháo
nhác khắp làng hết vay rồi xin cũng chỉ được vài chục ngàn. Bà lão đành
gọi lái chó đến bán “bạn” mình đi. Bà vỗ về “bạn” trước khi người lái
chó thòng dây vào cổ con chó ốm: “mày thông cảm, hoặc là chồng tao chết,
hoặc là mày chết. Thôi “mày” đi thay ông ấy”. Không rõ con chó lẽ cũng
hiểu tình cảm của bà lão, hay vì đói quá nên chẳng còn sức ăng ẳng kêu
như những con chó khác khi bị bán, chỉ mắt long lanh nước nhìn bà chủ
ngoảnh mặt đi.
Trong cuộc đời này không nỗi buồn nào buồn bằng nỗi buồn con bất hiếu -
cha mẹ bị hắt hủi. Ai cũng có mẹ có cha nên chạnh lòng trước thảm cảnh
của hai cụ, chúng tôi cũng muốn khóc nhưng phải cố dằn lòng vì khóc
không giúp được gì cho hai cuộc
đời khổ sở cùng cực này, chỉ mong thông qua mặt báo chuyển tải đến hàng
triệu bạn đọc trên cả nước lời khẩn cầu có một sự đóng góp nhỏ giúp đỡ
hai cuộc đời này.
Lẩn
thẩn nghĩ lại thấy hai cụ ngày xưa đã nghèo, nay còn nghèo hơn nữa: 60
năm trước khi lấy nhau các cụ còn có mơ ước về những đứa con là “của để
dành” và 20 cây tre làm nhà; nay cuối đời các cụ còn gì ngoài sự thất
vọng về đạo lý làm người và 6 miếng gỗ mới chỉ đủ làm một chiếc áo quan,
lại động chạm đến nỗi áy náy của bà cụ: “Hai người chết chung thì còn
chôn một hòm được, nếu không chết cùng nhau thì chẳng lẽ một người lại…
bó chiếu?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét