CÀNG GÌA CÀNG DẺO CÀNG DAI 13
Để
có cái nhìn toàn diện về Nguyễn Công Trứ các bạn chịu khó đọc những bài
tôi sưu tầm và đăng tải sau đây.Các bạn có bình luận hay chỉ đọc cũng
là tốt rồi. Bạn nào có hứng có thể họa bình các bài thơ của Nguyễn Công
Trứ mà bạn cho là tâm đắc. Mời các bạn đọc từ bài (1)
(TIẾP THEO )
Sân
rồng cũng giống như ngày nào, văn võ bá quan vẫn nghiêm túc, kính cẩn.
Bước đi, giọng nói của mọi người vẫn phải cứ nhẹ nhàng, rành rọt...
Triều đình vẫn là triều đình, đạo vua tôi vẫn đâu ra đấy... Nguyễn Công
Trứ miên man với những dòng suy tưởng, đến khi nghe gọi tên, ông mới
giật mình. Cũng cách đi, giọng nói của hơn mười năm về trước, Nguyễn
Công Trứ tâu:
- Tâu bệ hạ, hạ thần đã về hưu và đang hưởng phước của triều đình, không rõ có tội gì mà bệ hạ cho quan quân bắt về ?
- Hiền khanh hãy bình thân. Vừa rồi, xem lại các văn án của tiên triều, trẫm cảm thấy mến hiền khanh nên cho người mời hiền khanh về kinh chơi ít hôm, không ngờ hiền khanh đi ra đất Bắc, sứ bộ vội vã làm hiền khanh hiểu lầm trẫm.
Nghe vua Tự Đức ban ơn, văn võ bá quan ai nấy đều lộ vẻ vui mừng khiến tự đáy lòng Nguyễn Công Trứ trào dâng một nỗi niềm mà ông tưởng chừng như đã lãng quên.
Và khi được đưa rước về quê cũ, Nguyễn Công Trứ nhìn đời với cặp mắt khác hơn. Tuy đã quá tuổi bảy mươi những mấy năm và thường đến ăn mày cửa Phật, nhưng lòng ông vẫn chưa dứt được tạp niệm, vẫn buông cái tâm này, chấp cái tâm kia. Nghĩ lại, nhiều việc xử sự ở đời, ông thấy cũng đúng mà cũng không đúng. Và nếu không phải là cụ Thượng Trứ, ông có thể hành động được như vậy không ? Cũng có thể, nhưng mức độ cũng chỉ là lời của anh đồ gàn, nghe qua rồi... bỏ. Đằng này... Tội nghiệp !
Ngày ấy, có một viên tri huyện trẻ tuổi mới đổi về trấn nhậm huyện Nghi Xuân. Y ta không hề tới thăm hỏi như những viên tri huyện khác, Nguyễn Công Trứ không hề trách móc. Tuổi trẻ vốn vậy. Thành đạt sớm cũng dễ làm con người trở nên hư hèn. Nhưng ông vẫn hi vọng, thời gian sẽ làm họ tĩnh tâm lại, chững chạc hơn, bởi họ là những người có học, biết đạo nghĩa thánh hiền. Mỗi người, mỗi thời có khác. Dù là trọng thần hưu trí, nhưng ông cũng là con dân của đất nước, của huyện Nghi Xuân nghèo khó này. Lấy tuổi già và công trạng để chèn ép lớp trẻ là điều ông không muốn. Điều mong muốn nhất của ông là làm quan phải ra làm quan, phải đóng góp cái gì đó thiết thực cho đời, chớ không phải ráng học hành rồi dựa vào thế quan mà bóp nặn dân lành. Loại quan đó, xã hội không cần, đất nước không cần và nếu có cần là cần phải loại trừ. Với quan điểm rõ ràng như vậy, nên Nguyễn Công Trứ rất lấy làm vui vẻ trong những ngày còn lại của cuộc đời.
Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng cùng cây cuốc nhỏ viếng hết chùa này tới thắng cảnh khác. Ông yêu qúi con bò như yêu qúi những đứa con của ông. Đến chỗ nào có cỏ non, ông thường dừng lại cuốc vài cụm cỏ và đưa vào tận miệng bò.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ đang cho bò ăn, thì có người lính lệ đi trước dẹp đường, hô lớn:
- Khuyên ai nấy phải tránh về một bên đường để quan lớn đi hành hạt.
Nguyễn Công Trứ nhướng mắt lên nhìn, rồi ngồi nép vào bờ cỏ, tiếp tục cho bò ăn.
Hai người lính lệ khiêng võng quan huyện đến nơi, thấy con bò xê ra đường, dạng chân ỉa, phải lùi võng và dừng lại.
Quan huyện bước ra khỏi võng, bước lại giật nắm cỏ trên tay ông già, rồi ném mạnh xuống quát tháo:
- Hay cho lão già nhà quê vô lễ ! Bắt lấy nó !
- Thưa... – Người lính lệ ấp úng.
Quan huyện khoát tay, nói:
- Nhà ngươi dắt con bò, còn hắn ta thay ngươi khiêng võng.
Vừa nói, quan huyện vừa bước lại võng và nằm xuống với gương mặt sáng ngời, thỏa mãn.
Nguyễn Công Trứ nói với người lính lệ:
- Hãy nghe lời quan lớn. Già này vẫn còn sức để khiêng quan huyện đi hành hạt mà.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ kê vai khiêng vị quan huyện. Độ chừng mươi thước, người lính lệ thả dây mũi bò, chạy lại giành lấy cây đòn khiêng, nói như khóc:
- Cố để con. Cố già rồi. Nếu quan lớn bắt tội, con xin chịu hết. Cố bước ra đi.
- Chuyện chi mà rùm beng vậy ? – Quan huyện hỏi lớn.
Lúc ấy có vài người qua đường, và một thư sinh dừng lại, chắp tay chào hỏi Nguyễn Công Trứ:
- Bẩm lạy Cụ Lớn ! Cụ Lớn đang khiêng ai thế ?
Dường như đã nghĩ ra, quan huyện lệnh hạ võng, bước xuống, một tay chống nạnh, một tay chỉ vào ông già nhà quê, hỏi:
- Ông già nhà quê này là ai mà các người làm rối lên thế ?
Người thư sinh lễ phép thưa:
- Trình quan lớn, đây là cụ Binh bộ thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng và phẩm tước lớn nhất Hà Tĩnh này. Nếu quan lớn bắt cụ khiêng võng, thì bà con chúng tôi ở đây xin quan lớn cho phép khiêng thế. Ơn đức ấy, chúng tôi không dám quên.
Tiếng nói của người thư sinh chưa dứt, vị quan huyện run rẩy như người bị bệnh kinh phong, nhưng vẫn còn nhớ chắp hai tay lạy như tế sao.
- Bẩm lạy cụ lớn. Con đến nhậm chức ở qúy huyện mới được vài ba ngày, chưa có dịp tới yết kiến cụ lớn. Thế mà, nay còn lại phạm lỗi với cụ lớn, xin cụ lớn mở lượng khoan hồng xuống phước tha cho con nhờ.
Người hiếu kỳ mỗi lúc một đông, và ai nấy cũng đều lấy tay che miệng cười ra chiều vui thích lắm. Nguyễn Công Trứ đỡ vị quan huyện trẻ tuổi hách dịch đứng dậy, ôn tồn nói:
- Già này nào dám bắt tội quan huyện. Quan huyện hãy đứng dậy. Khi nãy, quan huyện bắt tôi khiêng quan huyện tới đây, thì bây giờ quan huyện khiêng trả tôi về chỗ cũ. Còn nhúm cỏ non, quan giật ném lên đầu tôi, thì quan huyện cố mà lượm lại để tôi cho con bò của tôi ăn. Tuy nó là loài vật, nhưng nó có nghĩa.
- Con xin khiêng cụ lớn tới đâu cũng được, xin cụ lớn tha thứ những lỗi lầm vừa qua.
Thấy Nguyễn Công Trứ đưa tay vuốt râu, ngẩng mặt lên trời như chẳng hề đoái hoài tới lời cầu xin, vị quan huyện qùy xuống, nắm chặt cánh tay buông thõng của ông, năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn, con lỡ nóng tính mà mắc lỗi với cụ. Con hối hận lắm, mong cụ lớn đại nhân đại lượng thương hại con là đứa hậu sanh lỡ mồm lỡ miệng...
- Quan huyện đứng lên. – Nguyễn Công Trứ lần nữa đỡ viên quan huyện dậy, nói tiếp: - Ông đã hầu cửa Khổng sân Trình, thi đỗ cử nhân, được bổ nhậm chức quan tri huyện, dạy lễ nghĩa cho dân, chẳng lẽ ông không biết xỉ, đức, tước là thiên hạ tam tôn hay sao ? Cứ cho rằng tôi quê mùa dốt nát, nhưng cái đầu bạc trắng của tôi cũng xứng vai cha chú của ông chứ ? Ông ném nắm cỏ lên mái đầu bạc của tôi, ông có thấy lương tâm cắn rứt không ? Ông phải nhớ rằng, làm người cái tâm là qúy nhất, còn mọi thứ chỉ là thân ngoại chi vật. Đối với người già như tôi, ông còn hành hạ như vậy, huống gì những người dân đen. Nay, nếu tôi vô tình dung thứ cho ông thì tôi mang tội "trợ Kiệt vi ngược" (ý nói, giúp kẻ ác làm xằng bậy).
Nghe tới đó, viên tri huyện mặt trắng bệch không còn chút máu, hạ giọng năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn. Tôi cũng như con út của cụ, lỡ dại một lần, xin cụ làm phước tha cho. Tôi còn mẹ già...
- Thôi, được rồi, ông đứng lên đi. Lẽ ra, tôi báo lên đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển trình về bộ Lại và triều đình xét xử để làm gương cho những viên quan lại xấu xa, hiếp đáp lương dân vô tội. Nhưng, ông đã biết nghĩ tới mẹ già, thế là còn chút lương tâm. Tôi mong rằng, sau này mỗi lần ông làm việc gì cũng nên nghĩ tới mẹ hãy làm. – Nguyễn Công Trứ vuốt râu cười, nói tiếp: - Bây giờ quan huyện không ngại khiêng trả tôi về chỗ cũ chứ ?
Đúng là chết đi sống lại, viên quan huyện mừng rỡ, lạy tạ Nguyễn Công Trứ rồi kê vai vào đòn khiêng, mời Nguyễn Công Trứ bước lên võng.
Những người hiếu kỳ ra về mà lòng vui như mở hội và thầm khen cụ Thượng Trứ xử sự đúng mực của kẻ bề trên. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà cả vùng Hoan Châu ai cũng biết chuyện cụ Thượng Trứ cho viên tri huyện Nghi Xuân một bài học nhớ đời. Và cũng chỉ vài tháng sau, huyện Nghi Xuân đã đón nhận vị quan khác. Không biết vì tỉnh thần Hà Tĩnh biết chuyện mà hoán đổi vị quan tri huyện ấy, hay vì vị quan tri huyện ấy tự thấy khó lòng ở lại mà có thể làm việc có hiệu quả, nên vận động xin đi. Mỗi người mỗi ý tùy theo khoa ăn nói của người kể chuyện. Nhưng ai ai cũng muốn địa phương mình có được một vài người như cụ Thượng Trứ.
Ngẫm nghĩ lại có nhiều việc chưa đúng lắm, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn thấy mình xử sự phải đạo. Có lẽ nhờ thế mà dường như chẳng ai ghét bỏ ông. Nhân dịp mừng thọ bát tuần, nhân dân huyện Kim Sơn phái người mang lễ vật và câu đối mừng:
Hoan quận hương chi khôi, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn địa dĩ tích, thiên thu miếu hưởng hựu triều phong
(Hoan quận Hương đỗ đầu, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn đất mở rộng, nghìn thu miếu hưởng lại triều phong)
Nhân dân Tiền Hải cũng nhớ ơn ông:
Văn võ tuyền tài, danh trọng nội triều ngoại quận
Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải, Kim Sơn
(Văn võ tài gồm hay, danh trọng đối nội triều, ngoài quận
Ruộng nương đất mở rộng, công cao tại Tiền Hải, Kim Sơn)
Những vị thân hào hai huyện còn cho ông biết, những câu đối ấy được nhân dân khắc vào tấm gỗ sơn son thếp vàng đặt vào miếu thờ dù ông vẫn còn tại thế. Ngoài ra, bà con còn chạm bức hoành phi "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) để nhớ ơn ông đã đem cơm áo lại cho họ. Nguyễn Công Trứ không biết nói gì hơn là cám ơn và mong họ lo tận lực làm ăn để ngày một giàu hơn, con cháu được ăn học nhiều hơn.
Thân bằng văn hữu ở Hà Tĩnh, Nghệ An không đến được thì gửi câu đối chúc mừng:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế gian vô
(Trong thiên hạ vốn có người sự nghiệp kinh đời như Cụ
Giữa thế gian nào có kẻ phong lưu mãn kiếp như Ngài)
Hoặc:
Minh thế văn chương thiên hạ hữu
Nhứt sinh khảng khái thế gian vô
(Văn chương cái thế như ông, trong thiên hạ còn có đôi kẻ
Khảng khái suốt đời như Cụ, giữa thế gian không có một người)
Nguyễn Công Trứ còn đang đắm chìm trong những câu những chữ của các vế đối, thì người nhà chạy vào báo có quan Tổng đốc Võ Trọng Bình tới. Nguyễn Công Trứ vui vẻ ra mặt. Ai chứ Võ Trọng Bình là người chơi được. Tuy đỗ tiến sĩ, làm tới chức Tổng đốc, nhưng gia cảnh Võ Trọng Bình chẳng hơn gì ngày chưa xuất chính. Thời gian qua, Võ Trọng Bình hết lòng vì nước vì dân, không hề tơ hào, đục khoét của cải dân lành. Võ Trọng Bình ít tuổi hơn ông, nhưng ông coi như một người bạn. Qúy nhau vì đức, mến nhau vì tài. Ngó thế chứ gần năm rồi, hai người có gặp mặt nhau đâu. Mà lần trước cũng chẳng có ai tính trước.
Ngày ấy, trên đường viếng cảnh chùa về đã xế chiều, Nguyễn Công Trứ định bụng sà vào quán bên đường cho bò nghỉ chân, trước khi tách đường thiên lý rẽ vào làng, thì thấy một đoàn người khá đông, có mang cờ, lọng, trống, chiêng và phường bát âm, võng đòn cong cán... từ bên kia sông đang qua đò đi về phía Nam đến địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Hỏi ra, Nguyễn Công Trứ mới biết họ đang đón quan tân Án sát Nghệ An về nhiệm sở.
Thì ra thế !
Đi đầu đám rước là một viên cai lính Giản đội mũ đỏ, quần áo cũng có nẹp đỏ, tay cầm loa gọi lớn:
- Mọi người đi đường hãy tránh về một bên để cho đám rước quan lớn rộng đường đi.
Ai nấy đều dạt sang một bên. Nguyễn Công Trứ cũng xuống khỏi lưng bò và dắt sang một bên đường. Nhưng tiếng hô của viên cai lính Giản cứ rổn rảng vào tai mọi người, cộng với sự hiếu kỳ của những gnười đi đường, của bọn trẻ con... làm cho con bò của ông tuôn chạy. Nguyễn Công Trứ sải bước, chụp kịp sợi dây tróng, song con bò không chịu đứng yên, nên giữa người và bò cứ dùng dằng ở giữa đường.
Thấy vậy, người lớn thì lo sợ cho ông, còn bọn trẻ con lại khoái chí vỗ tay cười hô hố. Sự nhốn nháo ấy khiến cho con bò của Nguyễn Công Trứ càng sợ, càng trì kéo với chủ.
- Ông già này bạo gan nhỉ ? Ông dám cản đường rước tân đường quan đi phải không ? – Viên cai lính Giản quát.
Nguyễn Công Trứ ôn tồn thú thật:
- Không phải thế đâu, anh nó ạ. Con bò của già vì sợ quá mà đâm ra hư hỏng, chớ già này nào dám để mang tội phạm tất.
Càng lúc đám rước càng tới gần, viên cai lính Giản cũng hốt hoảng xô Nguyễn Công Trứ một cái rồi chạy lại trình với quan Án sát đang nằm bệ vệ trên võng đòn cong có hai người lính đi kèm với hai cây lọng xanh che bóng mặt trời.
- Bẩm quan lớn, con có bổn phận dẹp đường cho đám rước quan lớn về nhiệm sở, nhưng tới đây có một ông già cùng con bò cản đường, con dẹp không được. Bất đắc dĩ con mới đẩy ông già vào lề, thế mà ông ấy ăn vạ không chịu ngồi dậy.
Trong lúc đó, Nguyễn Công Trứ được bà con đỡ dậy, xoa bóp chân tay, hỏi han ông bị đau chỗ nào, có thấy nguy hiểm lắm không. Nguyễn Công Trứ chưa kịp cám ơn bà con, thì quan Án sát đã cho lính khiêng võng tới gần, lớn giọng quát:
- Tên lão phu thảo dã nào mà dám vô lễ, vô hạnh đến thế ? Lính đâu, bắt lão già lại dẫn về dinh Án sát Nghệ An, ta sẽ chiếu luật xét xử đích đáng để răn những kẻ điền phu dã tốt khác ỷ tuổi già mà làm càng làm bậy, khinh khi phẩm tước triều đình.
Lệnh vừa ban, hai người lính tới kéo Nguyễn Công Trứ ra khỏi những vòng tay run sợ của những người dân ven đường.
Quan Án sát tiếp tục ra lệnh:
- Tiếp tục thi hành nghiêm chỉnh phận sự dẹp đường.
Nguyễn Công Trứ thực tình năn nỉ mấy người lính:
- Quan Án sát nói thế chứ bắt già này về làm gì. Các anh thương cho tôi về nhà, trời cũng sắp tối đến nơi rồi. Mũi dại lái mang, nhưng con bò chớ phải con người đâu mà biết được cái gì đáng làm, cái gì không đáng làm. Lần nữa, xin các anh tha cho.
- Không được đâu bố ơi. Bố phải thương tụi con. Tụi con còn cha mẹ, vợ con. Rủi thời về tới tỉnh đường, quan lớn hỏi bố, thì tụi con biết ăn nói làm sao. Bố chịu khó đi theo tụi con và chắc chắn bố được tha sớm thôi.
Nghe mấy người lính nói mà thương. Nguyễn Công Trứ cùng đi với họ về dinh quan Án, nhưng không quên dắt theo con bò.
- Bố đi một mình được rồi, còn con bò để tụi con dắt cho. Nếu mệt, thì bố cứ lên lưng bò mà ngồi.
Nguyễn Công Trứ cám ơn lòng tốt của những người lính trẻ.
Đến tỉnh thành Nghệ An cũng vừa lúc mặt trời lặn. Mấy người lính không biết tính sao với ông già và con bò. Bàn tới tính lui, họ dẫn Nguyễn Công Trứ và con bò vào tạm gửi nhà lao để sáng sớm mai tới nhận ra và dẫn trình quan Án sát.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ và con bò vàng nằm trong ngục, thì tên quan Án phải bận rộn thù tiếp các quan phủ, huyện và các ty, tào cùng hàng văn thân, tổng lý trong tỉnh chờ chực ra mắt tân đường quan từ lúc chiều. Họ vui vẻ bên chén rượu và những câu chuyện đãi bôi, quên kẻ điền phu dã tốt bị bắt ở dọc đường vì tội vô lễ với quan lớn.
Sáng ngày sau vừa nghe tiếng trống hầu, hai người lính áp giải Nguyễn Công Trứ và con bò vào ngục chiều qua, vội vội vàng vàng chạy vào nhận lãnh những mong sớm đưa ông hầu tân quan.
Ra khỏi ngục thất, họ thấy quan Án trong chiếc áo xanh rộng thùng thình đang nhanh bước về phía dinh Tổng đốc. Họ lắc đầu thở dài:
- Bố xui quá. Quan Án đang bận yết kiến quan Thủ hiến theo lệ định. Kiểu này, sớm lắm thì chiều tối, bố mới gặp được quan lớn.
Nguyễn Công Trứ cười, nói:
- Cám ơn hai anh lo lắng cho già này. Hai anh hãy giữ hộ con bò để tôi chạy theo quan Án, họa may ngài xét xử sớm cho tôi.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ cất bước chạy theo khiến hai người lính thót ruột, đứng nhìn và lắc đầu than:
- Đúng là trâu già chẳng nệ dao phay.
Họ rất muốn cản ông lại, nhưng lại sợ gây cảnh ồn ào trong buổi đầu diện kiến của quan Án với quan Thủ hiến, nên họ đành chôn chân tại chỗ.
- Tâu bệ hạ, hạ thần đã về hưu và đang hưởng phước của triều đình, không rõ có tội gì mà bệ hạ cho quan quân bắt về ?
- Hiền khanh hãy bình thân. Vừa rồi, xem lại các văn án của tiên triều, trẫm cảm thấy mến hiền khanh nên cho người mời hiền khanh về kinh chơi ít hôm, không ngờ hiền khanh đi ra đất Bắc, sứ bộ vội vã làm hiền khanh hiểu lầm trẫm.
Nghe vua Tự Đức ban ơn, văn võ bá quan ai nấy đều lộ vẻ vui mừng khiến tự đáy lòng Nguyễn Công Trứ trào dâng một nỗi niềm mà ông tưởng chừng như đã lãng quên.
Và khi được đưa rước về quê cũ, Nguyễn Công Trứ nhìn đời với cặp mắt khác hơn. Tuy đã quá tuổi bảy mươi những mấy năm và thường đến ăn mày cửa Phật, nhưng lòng ông vẫn chưa dứt được tạp niệm, vẫn buông cái tâm này, chấp cái tâm kia. Nghĩ lại, nhiều việc xử sự ở đời, ông thấy cũng đúng mà cũng không đúng. Và nếu không phải là cụ Thượng Trứ, ông có thể hành động được như vậy không ? Cũng có thể, nhưng mức độ cũng chỉ là lời của anh đồ gàn, nghe qua rồi... bỏ. Đằng này... Tội nghiệp !
Ngày ấy, có một viên tri huyện trẻ tuổi mới đổi về trấn nhậm huyện Nghi Xuân. Y ta không hề tới thăm hỏi như những viên tri huyện khác, Nguyễn Công Trứ không hề trách móc. Tuổi trẻ vốn vậy. Thành đạt sớm cũng dễ làm con người trở nên hư hèn. Nhưng ông vẫn hi vọng, thời gian sẽ làm họ tĩnh tâm lại, chững chạc hơn, bởi họ là những người có học, biết đạo nghĩa thánh hiền. Mỗi người, mỗi thời có khác. Dù là trọng thần hưu trí, nhưng ông cũng là con dân của đất nước, của huyện Nghi Xuân nghèo khó này. Lấy tuổi già và công trạng để chèn ép lớp trẻ là điều ông không muốn. Điều mong muốn nhất của ông là làm quan phải ra làm quan, phải đóng góp cái gì đó thiết thực cho đời, chớ không phải ráng học hành rồi dựa vào thế quan mà bóp nặn dân lành. Loại quan đó, xã hội không cần, đất nước không cần và nếu có cần là cần phải loại trừ. Với quan điểm rõ ràng như vậy, nên Nguyễn Công Trứ rất lấy làm vui vẻ trong những ngày còn lại của cuộc đời.
Ngày ngày, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng cùng cây cuốc nhỏ viếng hết chùa này tới thắng cảnh khác. Ông yêu qúi con bò như yêu qúi những đứa con của ông. Đến chỗ nào có cỏ non, ông thường dừng lại cuốc vài cụm cỏ và đưa vào tận miệng bò.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ đang cho bò ăn, thì có người lính lệ đi trước dẹp đường, hô lớn:
- Khuyên ai nấy phải tránh về một bên đường để quan lớn đi hành hạt.
Nguyễn Công Trứ nhướng mắt lên nhìn, rồi ngồi nép vào bờ cỏ, tiếp tục cho bò ăn.
Hai người lính lệ khiêng võng quan huyện đến nơi, thấy con bò xê ra đường, dạng chân ỉa, phải lùi võng và dừng lại.
Quan huyện bước ra khỏi võng, bước lại giật nắm cỏ trên tay ông già, rồi ném mạnh xuống quát tháo:
- Hay cho lão già nhà quê vô lễ ! Bắt lấy nó !
- Thưa... – Người lính lệ ấp úng.
Quan huyện khoát tay, nói:
- Nhà ngươi dắt con bò, còn hắn ta thay ngươi khiêng võng.
Vừa nói, quan huyện vừa bước lại võng và nằm xuống với gương mặt sáng ngời, thỏa mãn.
Nguyễn Công Trứ nói với người lính lệ:
- Hãy nghe lời quan lớn. Già này vẫn còn sức để khiêng quan huyện đi hành hạt mà.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ kê vai khiêng vị quan huyện. Độ chừng mươi thước, người lính lệ thả dây mũi bò, chạy lại giành lấy cây đòn khiêng, nói như khóc:
- Cố để con. Cố già rồi. Nếu quan lớn bắt tội, con xin chịu hết. Cố bước ra đi.
- Chuyện chi mà rùm beng vậy ? – Quan huyện hỏi lớn.
Lúc ấy có vài người qua đường, và một thư sinh dừng lại, chắp tay chào hỏi Nguyễn Công Trứ:
- Bẩm lạy Cụ Lớn ! Cụ Lớn đang khiêng ai thế ?
Dường như đã nghĩ ra, quan huyện lệnh hạ võng, bước xuống, một tay chống nạnh, một tay chỉ vào ông già nhà quê, hỏi:
- Ông già nhà quê này là ai mà các người làm rối lên thế ?
Người thư sinh lễ phép thưa:
- Trình quan lớn, đây là cụ Binh bộ thượng thư trí sĩ, một bậc hưu quan có danh vọng và phẩm tước lớn nhất Hà Tĩnh này. Nếu quan lớn bắt cụ khiêng võng, thì bà con chúng tôi ở đây xin quan lớn cho phép khiêng thế. Ơn đức ấy, chúng tôi không dám quên.
Tiếng nói của người thư sinh chưa dứt, vị quan huyện run rẩy như người bị bệnh kinh phong, nhưng vẫn còn nhớ chắp hai tay lạy như tế sao.
- Bẩm lạy cụ lớn. Con đến nhậm chức ở qúy huyện mới được vài ba ngày, chưa có dịp tới yết kiến cụ lớn. Thế mà, nay còn lại phạm lỗi với cụ lớn, xin cụ lớn mở lượng khoan hồng xuống phước tha cho con nhờ.
Người hiếu kỳ mỗi lúc một đông, và ai nấy cũng đều lấy tay che miệng cười ra chiều vui thích lắm. Nguyễn Công Trứ đỡ vị quan huyện trẻ tuổi hách dịch đứng dậy, ôn tồn nói:
- Già này nào dám bắt tội quan huyện. Quan huyện hãy đứng dậy. Khi nãy, quan huyện bắt tôi khiêng quan huyện tới đây, thì bây giờ quan huyện khiêng trả tôi về chỗ cũ. Còn nhúm cỏ non, quan giật ném lên đầu tôi, thì quan huyện cố mà lượm lại để tôi cho con bò của tôi ăn. Tuy nó là loài vật, nhưng nó có nghĩa.
- Con xin khiêng cụ lớn tới đâu cũng được, xin cụ lớn tha thứ những lỗi lầm vừa qua.
Thấy Nguyễn Công Trứ đưa tay vuốt râu, ngẩng mặt lên trời như chẳng hề đoái hoài tới lời cầu xin, vị quan huyện qùy xuống, nắm chặt cánh tay buông thõng của ông, năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn, con lỡ nóng tính mà mắc lỗi với cụ. Con hối hận lắm, mong cụ lớn đại nhân đại lượng thương hại con là đứa hậu sanh lỡ mồm lỡ miệng...
- Quan huyện đứng lên. – Nguyễn Công Trứ lần nữa đỡ viên quan huyện dậy, nói tiếp: - Ông đã hầu cửa Khổng sân Trình, thi đỗ cử nhân, được bổ nhậm chức quan tri huyện, dạy lễ nghĩa cho dân, chẳng lẽ ông không biết xỉ, đức, tước là thiên hạ tam tôn hay sao ? Cứ cho rằng tôi quê mùa dốt nát, nhưng cái đầu bạc trắng của tôi cũng xứng vai cha chú của ông chứ ? Ông ném nắm cỏ lên mái đầu bạc của tôi, ông có thấy lương tâm cắn rứt không ? Ông phải nhớ rằng, làm người cái tâm là qúy nhất, còn mọi thứ chỉ là thân ngoại chi vật. Đối với người già như tôi, ông còn hành hạ như vậy, huống gì những người dân đen. Nay, nếu tôi vô tình dung thứ cho ông thì tôi mang tội "trợ Kiệt vi ngược" (ý nói, giúp kẻ ác làm xằng bậy).
Nghe tới đó, viên tri huyện mặt trắng bệch không còn chút máu, hạ giọng năn nỉ:
- Bẩm lạy cụ lớn. Tôi cũng như con út của cụ, lỡ dại một lần, xin cụ làm phước tha cho. Tôi còn mẹ già...
- Thôi, được rồi, ông đứng lên đi. Lẽ ra, tôi báo lên đường quan tỉnh Hà Tĩnh chuyển trình về bộ Lại và triều đình xét xử để làm gương cho những viên quan lại xấu xa, hiếp đáp lương dân vô tội. Nhưng, ông đã biết nghĩ tới mẹ già, thế là còn chút lương tâm. Tôi mong rằng, sau này mỗi lần ông làm việc gì cũng nên nghĩ tới mẹ hãy làm. – Nguyễn Công Trứ vuốt râu cười, nói tiếp: - Bây giờ quan huyện không ngại khiêng trả tôi về chỗ cũ chứ ?
Đúng là chết đi sống lại, viên quan huyện mừng rỡ, lạy tạ Nguyễn Công Trứ rồi kê vai vào đòn khiêng, mời Nguyễn Công Trứ bước lên võng.
Những người hiếu kỳ ra về mà lòng vui như mở hội và thầm khen cụ Thượng Trứ xử sự đúng mực của kẻ bề trên. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ cũng đồn xa. Chỉ trong vòng có mấy ngày mà cả vùng Hoan Châu ai cũng biết chuyện cụ Thượng Trứ cho viên tri huyện Nghi Xuân một bài học nhớ đời. Và cũng chỉ vài tháng sau, huyện Nghi Xuân đã đón nhận vị quan khác. Không biết vì tỉnh thần Hà Tĩnh biết chuyện mà hoán đổi vị quan tri huyện ấy, hay vì vị quan tri huyện ấy tự thấy khó lòng ở lại mà có thể làm việc có hiệu quả, nên vận động xin đi. Mỗi người mỗi ý tùy theo khoa ăn nói của người kể chuyện. Nhưng ai ai cũng muốn địa phương mình có được một vài người như cụ Thượng Trứ.
Ngẫm nghĩ lại có nhiều việc chưa đúng lắm, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn thấy mình xử sự phải đạo. Có lẽ nhờ thế mà dường như chẳng ai ghét bỏ ông. Nhân dịp mừng thọ bát tuần, nhân dân huyện Kim Sơn phái người mang lễ vật và câu đối mừng:
Hoan quận hương chi khôi, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn địa dĩ tích, thiên thu miếu hưởng hựu triều phong
(Hoan quận Hương đỗ đầu, cái thế văn tài kiêm võ lược
Kim Sơn đất mở rộng, nghìn thu miếu hưởng lại triều phong)
Nhân dân Tiền Hải cũng nhớ ơn ông:
Văn võ tuyền tài, danh trọng nội triều ngoại quận
Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải, Kim Sơn
(Văn võ tài gồm hay, danh trọng đối nội triều, ngoài quận
Ruộng nương đất mở rộng, công cao tại Tiền Hải, Kim Sơn)
Những vị thân hào hai huyện còn cho ông biết, những câu đối ấy được nhân dân khắc vào tấm gỗ sơn son thếp vàng đặt vào miếu thờ dù ông vẫn còn tại thế. Ngoài ra, bà con còn chạm bức hoành phi "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) để nhớ ơn ông đã đem cơm áo lại cho họ. Nguyễn Công Trứ không biết nói gì hơn là cám ơn và mong họ lo tận lực làm ăn để ngày một giàu hơn, con cháu được ăn học nhiều hơn.
Thân bằng văn hữu ở Hà Tĩnh, Nghệ An không đến được thì gửi câu đối chúc mừng:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế gian vô
(Trong thiên hạ vốn có người sự nghiệp kinh đời như Cụ
Giữa thế gian nào có kẻ phong lưu mãn kiếp như Ngài)
Hoặc:
Minh thế văn chương thiên hạ hữu
Nhứt sinh khảng khái thế gian vô
(Văn chương cái thế như ông, trong thiên hạ còn có đôi kẻ
Khảng khái suốt đời như Cụ, giữa thế gian không có một người)
Nguyễn Công Trứ còn đang đắm chìm trong những câu những chữ của các vế đối, thì người nhà chạy vào báo có quan Tổng đốc Võ Trọng Bình tới. Nguyễn Công Trứ vui vẻ ra mặt. Ai chứ Võ Trọng Bình là người chơi được. Tuy đỗ tiến sĩ, làm tới chức Tổng đốc, nhưng gia cảnh Võ Trọng Bình chẳng hơn gì ngày chưa xuất chính. Thời gian qua, Võ Trọng Bình hết lòng vì nước vì dân, không hề tơ hào, đục khoét của cải dân lành. Võ Trọng Bình ít tuổi hơn ông, nhưng ông coi như một người bạn. Qúy nhau vì đức, mến nhau vì tài. Ngó thế chứ gần năm rồi, hai người có gặp mặt nhau đâu. Mà lần trước cũng chẳng có ai tính trước.
Ngày ấy, trên đường viếng cảnh chùa về đã xế chiều, Nguyễn Công Trứ định bụng sà vào quán bên đường cho bò nghỉ chân, trước khi tách đường thiên lý rẽ vào làng, thì thấy một đoàn người khá đông, có mang cờ, lọng, trống, chiêng và phường bát âm, võng đòn cong cán... từ bên kia sông đang qua đò đi về phía Nam đến địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Hỏi ra, Nguyễn Công Trứ mới biết họ đang đón quan tân Án sát Nghệ An về nhiệm sở.
Thì ra thế !
Đi đầu đám rước là một viên cai lính Giản đội mũ đỏ, quần áo cũng có nẹp đỏ, tay cầm loa gọi lớn:
- Mọi người đi đường hãy tránh về một bên để cho đám rước quan lớn rộng đường đi.
Ai nấy đều dạt sang một bên. Nguyễn Công Trứ cũng xuống khỏi lưng bò và dắt sang một bên đường. Nhưng tiếng hô của viên cai lính Giản cứ rổn rảng vào tai mọi người, cộng với sự hiếu kỳ của những gnười đi đường, của bọn trẻ con... làm cho con bò của ông tuôn chạy. Nguyễn Công Trứ sải bước, chụp kịp sợi dây tróng, song con bò không chịu đứng yên, nên giữa người và bò cứ dùng dằng ở giữa đường.
Thấy vậy, người lớn thì lo sợ cho ông, còn bọn trẻ con lại khoái chí vỗ tay cười hô hố. Sự nhốn nháo ấy khiến cho con bò của Nguyễn Công Trứ càng sợ, càng trì kéo với chủ.
- Ông già này bạo gan nhỉ ? Ông dám cản đường rước tân đường quan đi phải không ? – Viên cai lính Giản quát.
Nguyễn Công Trứ ôn tồn thú thật:
- Không phải thế đâu, anh nó ạ. Con bò của già vì sợ quá mà đâm ra hư hỏng, chớ già này nào dám để mang tội phạm tất.
Càng lúc đám rước càng tới gần, viên cai lính Giản cũng hốt hoảng xô Nguyễn Công Trứ một cái rồi chạy lại trình với quan Án sát đang nằm bệ vệ trên võng đòn cong có hai người lính đi kèm với hai cây lọng xanh che bóng mặt trời.
- Bẩm quan lớn, con có bổn phận dẹp đường cho đám rước quan lớn về nhiệm sở, nhưng tới đây có một ông già cùng con bò cản đường, con dẹp không được. Bất đắc dĩ con mới đẩy ông già vào lề, thế mà ông ấy ăn vạ không chịu ngồi dậy.
Trong lúc đó, Nguyễn Công Trứ được bà con đỡ dậy, xoa bóp chân tay, hỏi han ông bị đau chỗ nào, có thấy nguy hiểm lắm không. Nguyễn Công Trứ chưa kịp cám ơn bà con, thì quan Án sát đã cho lính khiêng võng tới gần, lớn giọng quát:
- Tên lão phu thảo dã nào mà dám vô lễ, vô hạnh đến thế ? Lính đâu, bắt lão già lại dẫn về dinh Án sát Nghệ An, ta sẽ chiếu luật xét xử đích đáng để răn những kẻ điền phu dã tốt khác ỷ tuổi già mà làm càng làm bậy, khinh khi phẩm tước triều đình.
Lệnh vừa ban, hai người lính tới kéo Nguyễn Công Trứ ra khỏi những vòng tay run sợ của những người dân ven đường.
Quan Án sát tiếp tục ra lệnh:
- Tiếp tục thi hành nghiêm chỉnh phận sự dẹp đường.
Nguyễn Công Trứ thực tình năn nỉ mấy người lính:
- Quan Án sát nói thế chứ bắt già này về làm gì. Các anh thương cho tôi về nhà, trời cũng sắp tối đến nơi rồi. Mũi dại lái mang, nhưng con bò chớ phải con người đâu mà biết được cái gì đáng làm, cái gì không đáng làm. Lần nữa, xin các anh tha cho.
- Không được đâu bố ơi. Bố phải thương tụi con. Tụi con còn cha mẹ, vợ con. Rủi thời về tới tỉnh đường, quan lớn hỏi bố, thì tụi con biết ăn nói làm sao. Bố chịu khó đi theo tụi con và chắc chắn bố được tha sớm thôi.
Nghe mấy người lính nói mà thương. Nguyễn Công Trứ cùng đi với họ về dinh quan Án, nhưng không quên dắt theo con bò.
- Bố đi một mình được rồi, còn con bò để tụi con dắt cho. Nếu mệt, thì bố cứ lên lưng bò mà ngồi.
Nguyễn Công Trứ cám ơn lòng tốt của những người lính trẻ.
Đến tỉnh thành Nghệ An cũng vừa lúc mặt trời lặn. Mấy người lính không biết tính sao với ông già và con bò. Bàn tới tính lui, họ dẫn Nguyễn Công Trứ và con bò vào tạm gửi nhà lao để sáng sớm mai tới nhận ra và dẫn trình quan Án sát.
Trong lúc Nguyễn Công Trứ và con bò vàng nằm trong ngục, thì tên quan Án phải bận rộn thù tiếp các quan phủ, huyện và các ty, tào cùng hàng văn thân, tổng lý trong tỉnh chờ chực ra mắt tân đường quan từ lúc chiều. Họ vui vẻ bên chén rượu và những câu chuyện đãi bôi, quên kẻ điền phu dã tốt bị bắt ở dọc đường vì tội vô lễ với quan lớn.
Sáng ngày sau vừa nghe tiếng trống hầu, hai người lính áp giải Nguyễn Công Trứ và con bò vào ngục chiều qua, vội vội vàng vàng chạy vào nhận lãnh những mong sớm đưa ông hầu tân quan.
Ra khỏi ngục thất, họ thấy quan Án trong chiếc áo xanh rộng thùng thình đang nhanh bước về phía dinh Tổng đốc. Họ lắc đầu thở dài:
- Bố xui quá. Quan Án đang bận yết kiến quan Thủ hiến theo lệ định. Kiểu này, sớm lắm thì chiều tối, bố mới gặp được quan lớn.
Nguyễn Công Trứ cười, nói:
- Cám ơn hai anh lo lắng cho già này. Hai anh hãy giữ hộ con bò để tôi chạy theo quan Án, họa may ngài xét xử sớm cho tôi.
Nói xong, Nguyễn Công Trứ cất bước chạy theo khiến hai người lính thót ruột, đứng nhìn và lắc đầu than:
- Đúng là trâu già chẳng nệ dao phay.
Họ rất muốn cản ông lại, nhưng lại sợ gây cảnh ồn ào trong buổi đầu diện kiến của quan Án với quan Thủ hiến, nên họ đành chôn chân tại chỗ.
DIZIKIMI SUU TAM VA BIEN SOAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét